Tổ chức Đảng_Nhân_dân_Cách_mạng_Lào

Từ một đảng có số thành viên khi thành lập khoảng 200-300 đảng viên, cho tới năm 1965 đã tăng lên 11.000 đảng viên và tới năm 1972 tăng lên 21.000 đảng viên. Và cho tới Đại hội Đảng lần thứ 9 Đảng tuyên bố có hơn 191.700 đảng viên chiếm 1% dân số Lào.[1]

Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào năm 1975 có 21 ủy viên và 6 dự khuyết. Và cho tới năm 1986 có 51 ủy viên và 9 dự khuyết và năm 1991 có 59 ủy viên Trung ương.

Bộ Chính trị là có quan quyền lực tối cao của đảng, ủy viên Bộ Chính trị được lựa chọn từ Trung ương Đảng. Bộ Chính trị từ năm 1972 có 7 ủy viên đến 1993 có 11 ủy viên.

Tại đại hội Đảng lần thứ V, đảng đã bãi bỏ Ban Bí thư 9 người và thay đổi sự lựa chọn của người đứng đầu Đảng, từ Tổng Bí thư tới Chủ tịch. Cho đến khi bãi bỏ, Ban Bí thư có quyền lực thứ 2 sau Bộ Chính trị và được tái lập tại Đại hội lần thứ VIII.

Kaysone PhomvihanTổng Bí thư từ khi thành lập năm 1955 cho tới khi qua đời năm 1992, và được đổi là Chủ tịch Đảng từ năm 1991. Nouhak Phoumsavan là nhân vật quyền lực thứ 2 từ khi thành lập Đảng đến khi Tổng Bí thư Kaysone qua đời, ông trở thành lãnh đạo trên danh nghĩa của Đảng.

Đảng Nhân dân Cách mạng Lào được dẫn dắt bởi Choummaly Sayasone từ năm 2006. Cựu lãnh đạo Khamtai Siphandon thay Nouhak Phoumsavan từ năm 1998. Các nhân vật lãnh đạo Đảng khác hiện nay là Sisavath KeobounphanhBoungnang Vorachith. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng, Phó Chủ tịch nước hầu hết là các chức vụ quan trọng trong Bộ Chính trị.

Đảng hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Vì đảng hoạt động trong 2 thập kỷ bí mật nên cho vẫn tiếp tục nửa công khai nửa bí mật, và cho tới nay cởi mở hơn và ít bí mật hơn trong một số vấn đề.